Siết chặt thuốc BVTV

09:00 SA @ Thứ Tư - 07 Tháng Mười, 2015

Thời gian gần đây, dư luận trong cả nước đang nóng lên chuyện tranh cãi giữa một số DN và các địa phương cũng như giữa cơ quan quản lí Nhà nước với DN xung quanh chủ trương hạn chế cũng như khuyến cáo việc sử dụng thuốc BVTV.


Cục trưởng Cục BVTV Nguyễn Xuân Hồng

Thực trạng nông sản Việt Nam chưa tiếp cận được nhiều thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là câu chuyện thời sự nóng được bàn luận suốt nhiều năm qua mà một trong những rào cản chính được chỉ ra chính là vấn đề ATVSTP bao gồm tồn dư thuốc kháng sinh trong sản phẩm chăn nuôi, thủy sản, thuốc BVTV trên rau quả, chè...

Thời gian gần đây, dư luận trong cả nước nóng lên chuyện tranh cãi giữa một số DN và các địa phương cũng như giữa cơ quan quản lí Nhà nước với DN xung quanh chủ trương hạn chế cũng như khuyến cáo việc sử dụng thuốc BVTV. Ở đây, chúng tôi chưa bàn tới việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có đúng hay không, nhưng xét tổng thể của ngành nông nghiệp, giải pháp hạn chế kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV luôn là chủ trương đúng đắn.

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Xuân Hồng - Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN-PTNT) một lần nữa lưu ý, thuốc BVTV là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, không khuyến khích kinh doanh. Do đó, càng hạn chế nông dân sử dụng thuốc BVTV có độ độc cao càng tốt, trước chính là để bảo vệ môi trường và sức khỏe giống nòi cho dân tộc, sau là tạo tiền đề để nông sản Việt Nam có đủ điều kiện ATVSTP xuất khẩu sang những thị trường khó tính nhưng giá bán cao.

Theo ông Nguyễn Xuân Hồng, hiện trong danh sách quản lí của Cục BVTV tại Việt Nam có khoảng 1.600 hoạt chất cộng hỗn hợp hoạt chất thuốc BVTV với khoảng 4.100 tên thương phẩm. Song trong số 4.100 tên thương phẩm, hiện chỉ có khoảng 30 - 40% tên có giao dịch trên thị trường, số còn lại các DN đăng ký nhưng chưa hoặc không còn sử dụng ở thời điểm hiện tại.

Về vấn đề này, theo ông Hồng, do các tên thương phẩm là tài sản của DN, có quyền sang tên, chuyển nhượng cộng việc luật pháp Việt Nam chưa có quy định thu hồi tên thương mại này như tên miền website (nếu trong thời gian nhất định không sử dụng).

Còn việc 4.100 tên thương phẩm có phải là nhiều hay không thì theo ông Hồng, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, danh mục của Việt Nam chưa phải là nhiều. “Hiện Mỹ có hơn 60.000 tên thương phẩm, Trung Quốc hơn 16.000 tên thương phẩm, Thái Lan và Malaysia đều trên 6.000 tên thương phẩm nên so với 4.100 tên thương phẩm của Việt Nam chưa phải là nhiều.

Hơn nữa, Việt Nam hiện nay, tôi tạm tính có khoảng 50 loại cây trồng chính (lương thực, rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp…), mỗi loại cây trồng có khoảng 10 loại sâu bệnh.

Như vậy, nhân lên với 50 cây trồng là chúng ta có khoảng 500 loại sâu bệnh. Lấy 4.100 chia cho 500 thì bình quân chỉ có khoảng 8 tên thương phẩm thuốc BVTV cho 1 loại cây trồng (đấy còn chưa trừ đi số tên thương phẩm đang không hoạt động) thì không phải là nhiều”, ông Nguyễn Xuân Hồng chứng minh.

Tuy nhiên, ông Hồng cho biết thêm, dù chưa hẳn đã nhiều, song trong những năm gần đây, đặc biệt là trong Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật mới được Quốc hội thông qua, Cục BVTV cũng đã đưa vào một loạt những điều khoản, yêu cầu nhằm siết chặt và hạn chế việc kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV.

Theo đó, những hoạt chất thuốc nhóm 1, 2 của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và 3, 4 theo tiêu chuẩn quốc tế (GHF) có độ độc cao đều bị loại ra khỏi danh mục được kinh doanh. Hiện nay, một hoạt chất DN SX, kinh doanh thuốc BVTV chỉ được đăng ký 1 tên thương phẩm và 1 hàm lượng cố định.

Quy định này nhằm tránh việc các DN lách luật, cạnh tranh không lành mạnh khi một hoạt chất có DN đăng ký hàng chục tên thương phẩm, rồi pha ra hàng loạt hàm lượng khác nhau để cạnh tranh về giá bán cũng như cho mỗi đại lí cấp 1 kinh doanh độc quyền 1 hàm lượng khiến thị trường hỗn loạn, người nông dân rất khó phân biệt và sử dụng.

Đặc biệt, với những cây trồng ăn trực tiếp và có nguy cơ cao như rau, cây ăn quả hay chè, từ năm 2014 đến nay, Cục BVTV sau khi nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng đã rút gọn hoạt chất thuốc BVTV dành cho những loại cây trồng này xuống mức tối thiểu và theo hướng thuốc sinh học là chính.

Cụ thể, trước đây danh mục hoạt chất thuốc BVTV cho rau, củ quả là trên dưới 100 thì nay chỉ còn hơn 10 hoạt chất; còn với cây chè trước đây là 171 hoạt chất nay rút gọn lại còn 38 hoạt chất. Vừa qua, Cục BVTV đã ban hành danh mục hoạt chất thuốc BVTV khuyến cáo cho chè gửi cho Hiệp hội Chè cũng như các địa phương tham khảo.

Riêng với cây lúa, hiện vẫn còn trên 300 hoạt chất, song theo ông Hồng do cây lúa đặc thù trước khi thu hoạch từ 10 - 15 ngày người dân gần như không phun, cộng quá trình phơi phóng, xay xát nên nguy cơ tồn dư thuốc BVTV trên lúa không cao như rau và chè. Tuy nhiên, trong thời gian tới Cục BVTV tiếp tục rà soát loại bỏ bớt những hoạt chất mà trong quá trình thực tế cho thấy bị giảm hiệu lực hay những hoạt chất theo cảnh báo của WHO và GHF.

Liên quan tới việc một số cơ quan truyền thông vừa qua phê phán một loạt các tỉnh, thành ban hành danh mục thuốc BVTV được cho là “ưu ái DN này hạn chế DN kia”, Cục trưởng Cục BVTV Nguyễn Xuân Hồng cho rằng, việc khuyến cáo dưới góc độ chuyên môn khoa học kỹ thuật rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, theo ông Hồng, để tránh bị hiểu lầm là “tình ngay lí gian”, các đơn vị quản lí Nhà nước khi ban hành danh mục khuyến cáo ngoài việc liệt kê những DN lớn, uy tín chỉ cần thêm dòng chữ “những tên thương phẩm có hoạt chất tương tự” cộng với ba dấu chấm ở đằng sau sẽ không ai bắt bẻ được gì cả. Bởi có hoạt chất có tới hàng trăm tên thương phẩm không văn bản nào liệt kê hết được”.

Nguồn: