Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên trong thời đại công nghiệp số

03:14 CH @ Thứ Năm - 23 Tháng Năm, 2024

Đại hội XII của Đảng (1/2016) khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nêu quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc, bất di bất dịch, thể hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng, cốt lõi của quan điểm này là kết hợp khoa học sự kiên định trước sau như một nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, đường lối đổi mới và nguyên tắc xây dựng Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới sáng tạo trên cơ sở tuân theo các quy luật khách quan, kế thừa tinh hoa văn hóa, truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và những kinh nghiệm thành công của quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam. 

Do vậy bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, quyết định sự tồn vong của Đảng, của chế độ. 

Ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khoá XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Trong đó, Bộ Chính trị nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; đồng thời, Nghị quyết nhấn mạnh: Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thực tế lịch sử cho thấy, không phải đến khi ban hành Nghị quyết 35, mà ngay từ khi Đảng ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu khách quan, Đảng luôn coi trọng công tác bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng và bảo vệ nhân dân, đồng thời kiên quyết đấu tranh phản bác, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch.

Trong thời kỳ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945), Đảng hoạt động giữa vòng vây của kẻ thù, nhiều thế lực phản cách mạng tập trung đánh phá quyết liệt, Đảng còn non trẻ nhưng đã thể hiện bản lĩnh của một đảng cách mạng có bản lĩnh chính trị vững vàng.

Đảng đã đấu tranh không khoan nhượng với những phần tử theo Trotskyt. Tổng Bí thư Hà Huy Tập (bút danh Thanh Hương) viết tác phẩm Trotskyt và phản cách mạng; Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết Tự chỉ trích nhằm đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của phái Trotskyt, tạo sự thống nhất về nhận thức về tư tưởng, chính trị và hành động trong toàn Đảng. Qua cuộc đấu tranh về tư tưởng, Đảng được xây dựng, trưởng thành, giữ vững vai trò lãnh đạo, phát động toàn dân tộc làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Đại hội III (1960) của Đảng đề ra nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (đó là xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam). Trong bối cảnh chủ nghĩa cơ hội, xét lại ra sức chống lại chủ nghĩa Mác, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác.

Tháng 12/1963, Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 9 “về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng”. Nghị quyết khẳng định lập trường kiên định của Đảng; kiên quyết đấu tranh bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, trước những sóng gió cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại sự chống phá của các phần tử phản động, cơ hội, Đảng luôn giữ vững đoàn kết, thống nhất về tư tưởng, lý luận, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên xây dựng CNXH.

Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Tổng thống Nga V.Putin trong “Thông điệp Liên bang năm 2005” gọi đó là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX”. Sự đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười, nơi khai sinh ra nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi thành trì của CNXH hiện thực, khiến cho các học giả tư sản phương Tây được dịp lên tiếng phê phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác -Lênin.

Kể từ sau sự kiện gây chấn động lịch sử toàn thế giới đến nay đã gần 30 năm, các thế lực thù địch vẫn luôn ra sức lợi dụng xuyên tạc, công kích và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ cho rằng sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin”.

Là Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy những tác động tiêu cực từ sự khủng hoảng của các đảng và các nước XHCN trên thế giới, nên đã chủ động phòng ngừa sự chống phá của các thế lực thù địch; cảnh giác, không sa vào các cuộc “cách mạng màu” mà nhiều đảng, nhiều nước đã rơi vào dẫn đến kết cục thất bại, để mất quyền lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam tích cực tìm đường đổi mới, dựa chắc trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định con đường đi lên CNXH.

Sự chủ động và quyết tâm của Đảng được thể hiện rõ trong NQTW 6 khóa VI (29/3/1989) “Về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới”, khi đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đổi mới đúng hướng, đúng mục tiêu và có hiệu quả. Trong Nghị quyết, Đảng khẳng định rõ: Tính chất của công cuộc đổi mới ở Việt Nam không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Đảng nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Sự khẳng định này cho thấy bản lĩnh và quyết tâm rất lớn của Đảng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, dù các thế lực thù địch ra sức chống phá.

Tiếp đó, tháng 8/1989, Hội nghị Trung ương 7 khóa VI của Đảng ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương Đảng nhận định 6 biểu hiện sai lầm trong cải tổ, cải cách của một số đảng về thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng, dân chủ hóa không giới hạn, hạ thấp sự lãnh đạo của đảng cộng sản, phủ nhận thành tựu của lịch sử, của CNXH.

Sự buông lỏng lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước CNXH ở Đông Âu khiến đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào lý tưởng XHCN, vào chế độ mà họ đang xây dựng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 nhấn mạnh: “Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng”.

Một trong những điểm nhấn quan trọng về lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được thể hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991). Lúc này, mặc dù sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu đang tạo một sức ép lớn trên thế giới, song Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên trì con đường đi lên CNXH.

Đảng xác định dứt khoát, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng hướng vào làm sáng tỏ và sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tính tất yếu của con đường XHCN; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu sai trái, thù địch. Cương lĩnh khẳng định rõ sự kiên trì, quyết tâm của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong thời kỳ đổi mới.

Căn cứ vào Cương lĩnh, vào yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng tiếp tục chỉ đạo cụ thể về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đảng ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” (tháng 3/1992); Nghị quyết số 09-NQ/TW “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” (tháng 2/1995); đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016) về xây dựng Đảng.

Trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đảng thẳng thắn vạch rõ những âm mưu thâm độc của các lực lượng thù địch khi thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam. Chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động đã được nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây coi là phương pháp “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”, “cách mạng hòa bình” và gần đây là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố... Trong chiến lược này, hoạt động văn hóa - tư tưởng được coi là “mũi đột phá”, là “cây cầu dẫn vào trận địa”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa”.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng chỉ rõ, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước” khiến cho các thế lực thù địch có cơ hội chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 22/10/2018) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó cơ quan báo chí các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa học công nghệ, internet và các nền tảng mạng xã hội; các thế lực thù địch luôn có các chiêu thức, thủ đoạn mới để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhất là trên môi trường mạng xã hội. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội vẫn ráo riết không từ bỏ ý đồ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; lợi dụng sự phát triển của internet và các trang mạng xã hội để có những hoạt động tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các quan điểm sai trái, thù địch thường được bày tỏ qua các hình thức như: phủ nhận, xuyên tạc, biến tướng lịch sử cách mạng Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận, chống đối, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; phá hoại, tấn công, chia rẽ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, đồng thuận xã hội; kích động, xúi giục, lợi dụng các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo, đất đai, môi trường, nhân quyền, dân chủ để gây bất ổn, biểu tình, bạo loạn; tuyên truyền, lan truyền các thông tin sai sự thật, bịa đặt, thổi phồng, chê bai, bôi xấu, vu cáo, phỉ báng Đảng, Nhà nước, lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước; lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa, uy hiếp, cưỡng ép, tấn công mạng các cán bộ, đảng viên, nhân dân để tham gia các tổ chức, nhóm, cá nhân phản động, cơ hội chính trị.

Vì vậy tăng cường sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên trước nhiều luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, trong giai đoạn hiện nay chính là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng  quan hệ mật thiết với nhau, là hai yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng. gồm: xây dựng nội bộ và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng càng được nâng lên thì sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng càng được củng cố, phát triển. Ngược lại, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là cơ sở đảm bảo của năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng tuy là hai vấn đề nhưng thường đi liền với nhau, hòa quyện vào nhau. Vì vậy, trong thực tư duy và hoạt đồng thực tiễn không được tách rời môt cách máy móc hai vấn đề này; cần có cách nhìn tổng thể, khoa học và giải pháp đồng bộ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Công tác nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng đã đạt được những ưu điểm nhất định: xây dựng nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của đảng ủy cơ sở, chi bộ cơ sở được chú trọng; công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm hơn và có chuyển biến tích cực; đội ngũ cán bộ cơ sở được trẻ hóa khá mạnh mẽ, từng bước được tiêu chuẩn hóa, chất lượng được nâng lên; nội dung phương thức họa động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng được đổi mới khá mạnh mẽ; chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên, khắc phục một bước tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ; công tác kiểm tra giám sát, quản lý đảng viên được tăng cường, nhiều nơi coi trọng hơn công tác giám sát và kiểm tra dấu hiệu vi phạm.

Nguyên nhân của những ưu điểm trên là: phần lớn cấp ủy viên và cấp ủy cơ sở đã nỗ lực phấn đấu với tinh thần trách nhiệm cao, vượt qua khó khăn, thách thức, tìm các chủ trương, giải pháp phù hợp, hiệu quả nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cảu tổ chức cơ sở đảng; trình độ mọi mặt của đội ngũ đảng viên, cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cơ sở dần được nâng lên một bước khá lớn; phần lớn các chi ủy, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, nghị quyết cảu cấp ủy cơ sở về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở địa phương, cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan đơn vị, cán bộ, chiến sĩ trong các đơn vị lực lượng vũ trang đã phát huy vai trò của mình, tích cực tham gia vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới của địa phương, đất nước, việc coi trọng và tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng Đảng.

Bên cạnh ưu điểm đã đạt được thì còn một số hạn chế như: năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có tôn giáo; công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước còn lúng túng và còn nhiều hạn chế; sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được coi trọng, tính chiến đầu trong tự phê bình và phê bình còn yếu; công tác quản lý đảng viên của một số tổ chức cơ sở đảng còn một số yếu kém, tính tiên phong gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên do đó mà giảm sút.

Nguyên nhân của những hạn chế như trên là do: một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa quán triệt sâu sắc, toàn diện về vai trò của tổ chức cơ sở đảng, yêu cầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chưa cụ thể, chưa sát tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đối với cấp ủy chưa được quan tâm đúng mức; công tác kiểm tra giám sát của một số cấp ủy, người đứng đầu các cấp chưa được coi trọng, thiếu quyết liệt, thường xuyên; chưa xử lý nghiêm minh, kịp thời cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở còn bấp bênh.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần phải có sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị với những việc làm cụ thể sau:

Một là: Tăng cường học tập, nghiên cứu, sáng tạo, phát huy và phổ biến nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh, trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Cần phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tự giác, kiên định, tự hào về nền tảng tư tưởng của Đảng, coi đó là nguồn sức mạnh tinh thần, là động lực hành động, là tiêu chuẩn đánh giá, là phương pháp giải quyết các vấn đề thực tiễn . Cần phải tìm hiểu, nắm vững, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng vào công tác, giải quyết các mâu thuẫn, bất cập, khó khăn, thách thức, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Cần phải tôn vinh, khen thưởng, phát huy những tấm gương điển hình, những người có thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu, sáng tạo, phổ biến nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hai là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông, văn hoá, nghệ thuật, thể thao, du lịch, giải trí, thông tin đại chúng, mạng xã hội, internet, truyền hình, phát thanh, báo chí, xuất bản, thư viện, bảo tàng, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh... để nâng cao hiểu biết, tình yêu, niềm tin, sự đồng tâm, đồng lòng, đồng hành của nhân dân với nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần phải tạo ra những sản phẩm, tác phẩm, chương trình, sự kiện, hoạt động có chất lượng, hấp dẫn, phong phú, đa dạng, phản ánh đúng, đầy đủ, khách quan, tích cực, sáng tạo về nền tảng tư tưởng của Đảng, về những thành tựu, kinh nghiệm, bài học, khát vọng, mong muốn, ước mơ của Đảng, Nhà nước, quân đội, nhân dân. Cần phải tận dụng, khai thác, phát huy các kênh, phương tiện, công cụ, nền tảng, nguồn lực, tiềm năng, cơ hội để tăng cường giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế, quảng bá, lan tỏa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hoá, lịch sử, truyền thống, danh tiếng, hình ảnh, thương hiệu. 

Ba là: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai, minh bạch các quan điểm sai trái, thù địch, các hoạt động chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần phải nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm, sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm, nhiệm vụ trong công tác này. Cần phải tăng cường hợp tác, phối hợp, hỗ trợ, chia sẻ, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tài liệu, tài nguyên, công nghệ, thiết bị, nhân lực, tài chính... giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước, trong và ngoài Đảng, Nhà nước, quân đội, nhân dân. Cần phải tôn trọng, bảo đảm, thực hiện tốt các quy định, quy chế, quy tắc, nguyên tắc, tiêu chuẩn, quy trình, phương pháp, biện pháp, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án... liên quan đến công tác này.

Bốn là: Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bằng cách sử dụng các lý lẽ, bằng chứng, sự thật, số liệu, thống kê, nhận xét, đánh giá, phân tích, so sánh, minh hoạ, ví dụ, trích dẫn, chứng minh, giải thích, làm rõ, làm sáng tỏ, làm cho hiểu, thuyết phục, đoàn kết, hướng dẫn, hỗ trợ, khuyên nhủ, giáo dục, cảnh báo, nhắc nhở, khích lệ, động viên, khen ngợi, tôn vinh, kỷ luật, xử lý, trừng trị.... Cần phải có tư duy, thái độ, hành động khoa học, khách quan, công bằng, chính xác, cẩn thận, kịp thời, phù hợp, hợp lý, hợp pháp, hợp tình, hợp lý, hợp tác, hòa bình, hướng thiện, đoàn kết, bảo vệ lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc. Cần phải tránh các sai lầm, thiếu sót, khuyết điểm, bất cập, rủi ro, nguy cơ, hậu quả, tổn thất, thiệt hại, mất mát, tai hại, nguy hiểm, bất an, bất ổn, bất lợi, bất công, bất hòa, bất mãn, bất bình, bất đồng, bất hợp, bất hòa, bất lực, bất khuất....

Chi bộ Kinh tế trực thuộc Đảng bộ Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, để từ đó nâng cao sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên trong chi bộ trước những chiêu thức, chiêu trò, thủ đoạn chống phá để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhất là trên môi trường mạng xã hội trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay. Góp phần vào công cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.